Kính hiển vi, dụng cụ tạo ra hình ảnh phóng lớn của những vật thể nhỏ, cho phép người quan sát quan sát vô cùng gần các cấu trúc nhỏ ở tỷ lệ tiện lợi cho việc kiểm tra và phân tách. dù rằng kính hiển vi quang học là chủ đề của bài viết này, nhưng hình ảnh cũng có thể được phóng to bằng nhiều dạng sóng khác, bao gồm âm thanh, tia X hoặc chùm tia điện tử và được thu bằng hình ảnh trực tiếp hoặc kỹ thuật số hoặc bằng sự hài hòa của các phương pháp này. Kính hiển vi có thể cung cấp hình ảnh động (như với các thiết bị quang học thông thường) hoặc hình ảnh tĩnh (như với kính hiển vi điện tử quét bình thường).

Độ cường điệu của kính hiển vi là biểu đạt của số lần vật thể được kiểm tra chừng như được phóng to và là 1 tỷ lệ không thứ nguyên. Nó thường được biểu hiện dưới dạng 10× (đối với một hình ảnh được phóng to gấp 10 lần), thỉnh thoảng bị đọc sai là “ten eks”—như thể × là 1 ký hiệu đại số—chứ không phải là dạng đúng, “mười lần”. Độ phân giải của kính hiển vi là thước đo khía cạnh nhỏ nhất của vật thể có thể quan sát được. Độ phân giải được miêu tả bằng đơn vị tuyến tính, thường là micromet (μm).

Loại kính hiển vi quen thuộc nhất là kính hiển vi quang học hoặc ánh sáng, trong đó thấu kính thủy tinh được sử dụng để tạo thành hình ảnh. Kính hiển vi quang học có thể đơn giản, bao gồm 1 thấu kính đơn hoặc phức hợp, bao gồm một số thành phần quang học thẳng hàng. Kính lúp cầm tay có thể phóng đại khoảng 3 đến 20×. Kính hiển vi đơn giản 1 thấu kính có thể thổi phồng lên tới 300×—và có khả năng phát hiện vi khuẩn—trong khi kính hiển vi phức hợp có thể phóng đại lên tới 2.000×. 1 kính hiển vi đơn thuần có thể phân giải dưới một micromet (μm; 1 phần triệu mét); kính hiển vi phức hợp có thể phân giải xuống khoảng 0,2 μm.



Hình ảnh để ý có thể được chụp bằng nhiếp ảnh phê chuẩn kính hiển vi, một khoa học được gọi là quang vi. Từ thế kỷ 19, điều này đã được thực hành bằng phim, nhưng hình ảnh khoa học số hiện nay được ưa chuộng hơn. 1 số kính hiển vi công nghệ số đã loại bỏ thị kính và phân phối hình ảnh trực tiếp trên màn hình máy tính. Điều này đã tạo ra 1 loạt giá kính hiển vi*giá rẻ mới với nhiều khả năng chụp ảnh, bao gồm cả kỹ thuật vi mô tua nhanh thời kì, vốn đã đem lại các nhiệm vụ phức tạp và tốn kém trước đây trong tầm tay của những nhà kính hiển vi trẻ hoặc nghiệp dư.

kính hiển vi điện tử truyền qua

Kính hiển vi điện tử*truyền qua (TEM).

kính hiển vi điện tử quét

một nhà công nghệ đang nghiên cứu kính hiển vi điện tử quét có độ phân giải cao trong môi trường phòng sạch khoa học cao.(thêm)

các loại kính hiển vi khác sử dụng thực chất sóng của những quá trình vật lý khác nhau. Điều quan yếu nhất là*mua kính hiển vi*điện tử, sử dụng chùm tia điện tử để tạo hình ảnh. Kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM) có độ thổi phồng hơn 1.000.000×. TEM tạo ra hình ảnh của các mẫu vật mỏng, điển hình là các phần, trong chân không gần. Kính hiển vi điện tử quét (SEM), tạo ra hình ảnh phản ánh nhẹ nhõm trong mẫu vật có đường viền, thường có độ phân giải thấp hơn TEM nhưng có thể hiển thị những bề mặt rắn theo cách mà kính hiển vi điện tử thường nhật không thể làm được. ngoài ra còn có kính hiển vi sử dụng tia laser, âm thanh hoặc tia X. Kính hiển vi quét đường hầm (STM), có thể tạo ra hình ảnh của các nguyên tử và kính hiển vi điện tử quét môi trường (ESEM), tạo ra hình ảnh bằng cách sử dụng electron của mẫu vật trong môi trường khí, sử dụng các hiệu ứng vật lý khác để mở mang hơn nữa các loại vật thể có thể là

đã kiểm tra.


Bài viết khác cùng Box :